Saturday, March 13, 2021

Danh ca Lệ Thu | Hải Ngoại Thương Ca (Nguyễn Văn Đông) | PBN 77

 Còn đây giây phút này
Còn nghe tiếng hát, nụ cười xinh tươi
Còn trong ánh mắt, còn cầm tay nhau
Ngày mai xa cách nhau
Một người gối chiếc cô phòng,
Còn người góc núi ven rừng, chân mây đầu gió ...

Còn đây đêm cuối cùng
Nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
Ngại khơi nước mắt, nhạt nhòa môi em
Người đi giúp núi sông ...
Hàng hàng lớp lớp chưa về
Hàng hàng nối tiếp câu thề giành lấy quê hương

Hỡi người anh thương, chưa trọn thề ước
Nhưng tình đất nước đâu phải chỉ cho mình
Dệt mộng thắm kết uyên ương
Phương trời anh đi, xa xôi vạn lý
Đêm nằm gối súng, chung ánh trăng
Nhưng đôi đường ly cách trong tình thương

Và xin em hiểu rằng,
Dù nơi chiến tuyến mịt mờ mưa bay,
Lòng anh vẫn nhớ tình người hôm nay
Đời dâng cho núi sông
Lòng này thách với tang bồng
Đừng sầu má thắm phai hồng, buồn lắm em ơi ...


Còn đây giây phút này
Còn nghe tiếng hát dập dìu bên hoa,
còn trông bóng dáng người mình thương yêu

Ngày mai xa cách nhau
Một người góc núi chân đèo,
còn người đối bóng cô phòng, đêm đông một bóng
Còn đây đêm cuối này
Đàn ai réo rắt nhạc lòng chia ly
Sợ khi nước mắt buồn người ra đi
Đường mây chân núi xa
Dù ngàn nắng lửa mưa dầu, lòng người nhất quyết công đầu, dành lấy mai sau

Hỡi người anh thương, chưa trọn thề ước
nhưng tình đất nước ôi lớn lao không đành lòng
Dệt mối thắm riêng tư
Phương trời anh đi, xa xôi vạn lý
Đêm nằm gối súng, chung ánh trăng
Cho người này gợi nhớ thương người kia

Và xin em hiểu rằng,
người đi giúp nước nào màng danh chi
Cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy
Đường đi biên giới xa...
Lòng này thách với tang bồng
Đừng sầu má ấy phai hồng, buồn lắm em ơi ...

Monday, February 22, 2021

Anh Khoa Tiếng Ca Mặn Tình Người Duyên Hải

Cái cảm nhận đầu tiên của tôi về tiếng hát của Anh Khoa là âm sắc đẹp và nồng ấm của nó. Thật ra, tiếng hát của anh nhờ cái đẹp nồng ấm nên che giấu một vài thô thiễn lỗi lầm mà anh có thể sửa chửa nếu anh bỏ lối hát cũ để tập luyện lại bằng phương pháp chân truyền.
Dù khi anh đứng trên tuyệt đỉnh vinh quang, anh cũng còn thì giờ để có thể sửa đổi được những cái défauts ấy để cho tiếng hát mình như viên ngọc được cắt cạnh và mài dũa mặt khéo léo hơn.
Thuở đó anh còn trẻ, những sợi thanh đới của anh còn mềm dẻo để cho anh có cơ hội luyện giọng lại. Giọng anh hơi nghẹt mũi, làn hơi đã không dồi dào lắm, lại không được anh dàn trải đều đặn nên thừa thải ở chổ này để rồi thiếu hụt ở chổ khác.
Chuỗi ngân thô rít và không đều đặn khít khao. Nhưng sở dĩ khán thính giả yêu mến anh vì giọng hát anh nồng ấm như trầm hương bách hợp, khoẻ khoắn trơn ngọt như giòng mật rót vào ly nên có một hấp lực nồng ngát say sưa. Do đó, khi nghe anh hát, thính giả chỉ chú trọng vào cái đẹp tổng quát của tiếng hát anh mà thôi. Nhờ vậy, khi hành nghề chẳng bao lâu mà anh trở thành một ngôi sao ca nhạc.
Nhưng người sành điệu thì khác. Họ tiếc hộ anh vì anh có một giọng hát đẹp mà không chịu trau giồi đúng mức để trở thành một viên ngọc Biện Hòa có giá trị liên thành thuở xưa mà thời nhân gọi là toàn bích, là vô song phẫm vào thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu.
Khi còn cộng tác với ban nhạc Jo Marcel, Anh Khoa còn chọn những bản có phẫm chất, có giá trị nghệ thuật. Khi hát ở những nơi khác, anh chọn những bản phổ thông và tạp nhạp.
Tiếng hát Anh Khoa ở giữa khoảng giữa giọng thường (baritone) và giọng trầm (basse). Khi xuống chỗ hơi trầm tiếng anh rền mà không dội sâu vì làn hơi anh không phong phú và dũng mãnh lắm.Anh không chải chuốt giọng hát cho mượt mà, bởi giọng anh đã có sẵn cái quyến rũ mộc mạc rồi.
Tiếng hát Anh Khoa tự bản chất là tiếng hát đẹp và truyền cảm. Nó đưa vào tâm hồn khán thính giả ánh nắng ấm áp của mùa hè vùng duyên hải.
Lúc đó, họ có cảm tưởng mình sống lại tuổi học trò vào những ngày bãi trường được xa rời thành phố để về nghĩ mát nơi vùng quê ven biển ngó qua dãy Hoành Sơn sừng sững bên kia chân trời. Họ có thể tắm nắng trên bãi cát để nghe tiếng sóng ngoài khơi, tiếng thuỳ dương reo vi vút, tiếng cười nói lao xao bên xóm chài, tiếng hát của du khách bên ghềnh đá.
Nhưng ở đó là một thế giới ngoài khung cảnh mùa hè tràn đầy mộng tưởng của họ. Ở đây là nơi có nắng ấm tình người, có gió mát đưa tâm hồn họ bay bổng lên cõi khác, không còn liên lạc gì với cảnh sân trường lớp học trong niên học vừa qua.
Tiếng hát của Anh Khoa cũng có thể đưa khán thính giả sống lại dưới mái nhà ấm áp nơi quê hương ven biển trong đêm trừ tịch. Căn bếp ấm hẵn lên vì hơi lửa đun nồi bánh tét và ngọn lửa đun trả đầu heo luộc.
Ngoài mái nhà, tiếng sóng biển rào rào bất tuyệt như tiếng tình tự của quê hương, của biển mặn, nơi đã nuôi sống họ bằng muối và cá tôm.


Ca sĩ Anh Khoa bước chân vào làng âm nhạc Việt Nam bằng đôi hia bảy dặm.. Nỗi buồn lớn nhất của Anh Khoa là không có môi trường để hát.. Niềm vui nhất của Anh Khoa là được đến Hoa Kỳ trình diễn, gặp lại đồng nghiệp và khán, thính giả thân thương cũng như được ăn những món ăn Việt Nam thuần túy mà ở Hungary không bao giờ có.

LITTLE SAIGON (California) - Từ Hungary, một quốc gia Đông Âu xa xôi, ca sĩ Anh Khoa vừa đến Nam California theo lời mời của Trung tâm Asia, để trình diễn trong Đại nhạc hội trực tiếp thu hình với chủ đề ASIA DVD 61, Nhật Trường Trần Thiện Thanh 2 tổ chức vào cuối tuần này. Tuy rất bận rộn, ca sĩ Anh Khoa cũng dành cho nhật báo Viễn Đông một cuộc gặp gỡ để chúng tôi có dịp nghe anh tâm sự, và tìm hiểu đôi điều về cuộc sống của một ca sĩ tên tuổi rất được mến mộ như anh, nhưng chẳng may sống ở một đất nước không có điều kiện để thi thố tài năng. Buổi gặp gỡ giữa chúng tôi với ca sĩ Anh Khoa tại Studio của Nhiếp ảnh gia Thái Đắc Nhã, và sau đây là nội dung trao đổi giữa phóng viên Viễn Đông và ca sĩ Anh Khoa.
Viễn Đông: Thưa Anh, trước khi tìm hiểu về các sinh hoạt văn nghệ của anh tại hải ngọai, đặc biệt tại Nam California trong những ngày sắp tới. Xin anh cho phép chúng tôi "xâm phạm vào đời tư cá nhân" của anh một chút, anh có sẵn lòng không?
Anh Khoa: Đời tôi hoàn toàn công khai, không có gì giấu giếm cả, vì tên thật tôi cha mẹ đặt đã là Trần Công Khai rồi. Tôi sinh ra tại Phan Thiết, birthday là 20 tháng 5, năm con Trâu trong một gia đình rất nghèo. Hiện tôi có vợ và một cháu gái sống tại Budapest, thủ đô Hungary, một quốc gia thuộc Đông Âu.
Viễn Đông: Nguyên nhân nào anh gặp ái nữ của ông Đại sứ Hungary tại Việt Nam, và đi đến quyết định làm rể nước Hungary như hiện nay?
Anh Khoa: Bà xã tôi lúc đó cũng như bây giờ rất thích văn nghệ, bà ấy đi dự các buổi văn nghệ có tôi trình diễn, thế rồi mê tiếng hát của tôi và hai đứa gặp nhau, yêu nhau và lấy nhau. Tên vợ tôi là Karsai Irén.
Viễn Đông: Cô con gái ông Đại sứ Hung mê tiếng hát Anh Khoa hay mê vẻ đẹp trai của chàng ca sĩ Việt?
Anh Khoa: Có lẽ cả hai.
Viễn Đông: Lấy một người khác chủng tộc, ngôn ngữ và phong tục tập quán, anh có gặp nhiều trở ngại không?
Anh Khoa: Có, lúc đầu cũng gặp trở ngại, vì tôi học tiếng Hungary có sáu tháng nên nói cũng chẳng được nhiều, đành phải nói chuyện với bà xã tôi bằng tiếng Anh, mà như anh biết, tiếng mẹ đẻ đôi khi còn không diễn tả hết nữa là tiếng ngoại quốc, nhưng dần dần cũng quen, vả lại khi hai con tim đã yêu nhau rồi thì ngôn ngữ, chủng tộc hay cái gì cũng không ngăn cản được
Viễn Đông: Anh có dạy chị nói tiếng Việt không?
Anh Khoa: Có, bà xã tôi và con gái tôi biết chút ít.
Viễn Đông: Con gái anh có giống máu văn nghệ của bố không?
Anh Khoa: Rất giống máu bố. Cháu năm nay vừa tròn 17 tuổi, chúng tôi đăït tên cháu là Trần Diana, cháu học dương cầm từ năm 4 tuổi, học chơi nhạc cổ điển Tây phương. Năm nay là năm thứ 11 học dương cầm nên phải nói, cháu chơi rất giỏi; ngoài ra cháu học thêm về luyện thanh, học nhạc jazz, v.v.. So với tuổi cháu, tôi thấy cháu biết quá nhiều. Hiện nay hàng tuần, thứ Bảy, Chúa nhật tôi đều chở cháu đi học luyện thanh và nhạc jazz.
Viễn Đông: Anh bắt đầu biết ca hát từ năm bao nhiêu tuổi?
Anh Khoa: Tôi được Trời phú cho khiếu ca hát từ bẩm sinh nên ngay từ nhỏ tôi đã mê ca hát. Năm 12 tuổi, tôi được đại diện Tỉnh đi thi văn nghệ quốc sách Ấp Chiến Lược toàn quốc, tổ chức tại rạp Quốc Thanh Sàigòn và tôi chiếm giải nhất với nhạc phẩm "Nếu một mai anh biệt kinh kỳ".
Viễn Đông: Anh có học nhạc, học ca hát với nhạc sĩ nào không?
Anh Khoa: Không, tôi tự tìm tòi qua băng, dĩa nhạc vì lúc đó gia đình nghèo, chỉ có khả năng lo cho học văn hóa, không đủ khả năng cho tôi học ngành này nghề kia.
Viễn Đông: Sau khi anh đoạt giải nhất về đơn ca năm 12 tuổi, sau đó anh tiếp tục ca hát?
Anh Khoa: Tôi tiếp tục đi học, đến khi tôi học Trung học tại trường bán công Phan Chu Trinh ở Phan Thiết, một số bạn bè mê ca hát tụ họp nhau lập một ban nhạc trẻ lấy tên là ban "Ong Biển", nhưng vì nghèo, không có tiền mua đàn; chúng tôi tìm đủ mọi cách vận động gia đình yểm trợ mới sắm được một cây đàn điện, một bộ trống còn toàn chơi đàn thùng. Khi tôi lên Trung học Đệ Nhị cấp và học tại trường Nguyễn Huệ Nha Trang, phải vừa đi học vừa đi làm. Lúc đó chiến tranh khốc liệt, nhu cầu văn nghệ cho quân đội Mỹ rất hiếm, tôi có người anh ở Sàigòn ra thành lập một băng nhạc nhỏ và đưa chúng tôi đi hát tại các Club biển, và tôi phải tìm tòi sách vở, băng, dĩa nhạc của Mỹ, Úc, Anh v.v., để tự học và đi trình diễn.
Viễn Đông: Bản nhạc nào hay do một sự hy hữu nào đưa tên tuổi anh lên đài danh vọng?
Anh Khoa: Sau Tết Mậu Thân, tôi vào Sàigòn, may mắn gặp anh Jo Marcel đang hoạt động tại vũ trường Ritz, ban nhạc của Jo Marcel lúc đó là ban nhạc số 1 tại Sàigòn. Anh Jo Marcel biết tôi hát được nhạc Tây phương, biết chơi đàn Bass và nhất là thấy giọng hát tôi làm anh rất thích, anh mời tôi cộng tác và hết lòng nâng đỡ, dìu dắt tôi. Anh bắt tôi hát nhạc Việt với ca sĩ Lệ Thu mà lúc đó tôi rất thích hát nhạc của Vũ Thành An, Jo Marcel đưa tôi lên hát trên các đài truyền thanh và tên tuổi tôi bắt đầu nổi lên từ đó, đến nỗi báo chí thời bấy giờ viết rằng "ca sĩ Anh Khoa bước chân vào nền âm nhạc Việt Nam bằng đôi hia bảy dặm". Đây là thời kỳ vàng son nhất trong đời ca nhạc của tôi.
Viễn Đông: Điều gì làm anh nhớ nhất trong đời ca hát?
Anh Khoa: Đó là thời điểm sau 1975, như anh biết giới nghệ sĩ miền Nam không được họ cho hát, nhạc miền Nam bị cấm. Duy Khánh, Thanh Lan, Nhật Trường, tôi và nhiều, nhiều lắm không nhớ hết phải đi hát chui kiếm sống. Chúng tôi đi miền Tây, miền Trung nhưng phải khéo léo, lựa những bản nhạc của họ không nặng mùi "nhạc đỏ", rồi biến cải ra mà hát, thế là bà con mình thích lắm. Nhưng bà con thích thì "họ" ghen tức, vì họ là đoàn văn công lại không được mời mà lại mời chúng tôi, thế là họ đuổi và chúng tôi đi lang thang. Đó là những ngày khổ cực, vất vả tôi không bao giờ quên.
Viễn Đông: Sau khi ra hải ngoại, anh có thường đi lưu diễn không?
Anh Khoa: Thực ra Cộng đồng Việt Nam hải ngoại cũng như đồng hương khắp thế giới đã nhìn thấy những giọt nước mắt của tôi trên Paris By Night 15, những giọt nước mắt sung sướng và cảm động vì khi nghe Paris By Night mời, tôi thấy vô cùng sung sướng vì có dịp được hát, được gặp lại các anh chị em nghệ sĩ đồng nghiệp, gặp lại khán giả đã yêu mến mình sau bao nhiêu năm xa cách.
Viễn Đông: Có lẽ anh là ca sĩ Việt Nam duy nhất, một mình lưu lạc ở đất Hungary bên Đông Âu, anh có thể chia sẻ một chút tâm tư của mình?
Anh Khoa: Sống một mình với gia đình bên đó tôi rất buồn, đồng hương Việt Nam thì toàn mấy ông cán bộ, công nhân viên của họ, muốn gặp thì ra chợ trời, vì họ chuyên mua bán ngoài chợ trời, mà tôi cũng không thích tiếp xúc, thành thử mình cô đơn vì không có môi trường để phát huy; đó là nỗi buồn nhất của tôi.
Viễn Đông: Ở hải ngoại anh đã cộng tác với những Trung tâm băng nhạc nào?
Anh Khoa: Đầu thập niên 90, tôi có cộng tác với nhiều Trung tâm băng nhạc như Thúy Nga, Giáng Ngọc, Người Đẹp Bình Dương; Tình Nhớ, Miss VN-USA, Nhật Trường, Rainbow Tú Quỳnh; Mưa Hồng, v.v.. Hè 2005 tôi bắt đầu cộng tác với Trung tâm Asia.
Viễn Đông: Trong Đại nhạc hội Nhật Trường Trần Thiện Thanh 2 kỳ này, anh sẽ trình diễn nhạc phẩm nào của Trần Thiện Thanh?
Anh Khoa: Tôi sẽ hát bản "Vết Đạn Thù Trên Tường Vôi Trắng" và sẽ hát chung với ca sĩ trẻ Y Phương.
Viễn Đông: Ngoài việc cộng tác với Asia, anh có chương trình gì khác?
Anh Khoa: Trong cuộc đời ca hát của tôi gần nửa thế kỷ, tôi đã ra một CD với chủ đề "Khúc Thụy Du"; hai năm nay tôi đã hình thành CD thứ hai nhưng chưa thực hiện được, vì tôi không có may mắn được ở California như một số đông đồng nghiệp. Ở Hungary, muốn thực hiện CD rất khó. Lần này, may mắn sang đây, tôi sẽ ra mắt CD thứ hai mang chủ đề "Như Giọt Sương Khuya". Đây là tựa đề bài hát cùng tên do đạo diễn Bùi Sơn Duân thực hiện trước 1975 mà tôi nhớ không lầm thì có Bạch Tuyết, Trần Quang hay Hùng Cường gì đó đóng. Tôi sẽ hát lại bài hát này và ra mắt tại Nam California.
Viễn Đông: Sau khi hoàn tất công tác tại California, anh dự trù lưu diễn ở đâu nữa?
Anh Khoa: Sau khi hoàn thành nhiệm vụ của một người ca sĩ với Trung tâm Asia, tôi sẽ trở về cuộc sống thầm lặng với vợ con bên Hungary. Sống bên vợ con cũng có niềm vui, nhưng khi nghĩ tới không được hát cho những người ái mộ mình, tôi lại buồn, vì mình không có điều kiện, bên Đông Âu khác xa với California Hoa Kỳ.
Viễn Đông: Mấy ngày vừa qua, anh đã gặp lại các đồng nghiệp, bạn bè và khán giả, cảm tưởng của anh ra sao?
Anh Khoa: Rất vui, mừng vô cùng. Tình cảm của các anh chị em nghệ sĩ vẫn dành cho tôi như ngày nào, làm tôi nhớ vào khoảng tháng 9, 10 năm 1994 có dịp sang Mỹ, được các anh chị em trong giới nghệ sĩ tổ chức "Một Đêm Anh Khoa và Tình Nghệ Sĩ" tại vũ trường Diamond, Số tiền bán vé và anh chị em nghệ sĩ giúp đỡ, tôi đã gửi về mua một căn nhà cho các em tôi, thực hiện được điều tôi ước mơ đã lâu. Tôi vẫn không quên nghĩa cử đó.
Viễn Đông: Lúc nãy anh có đề cập đến con gái anh, cháu Trần Diana với một năng khiếu về âm nhạc rất xuất sắc. Nếu mai đây có những Trung tâm Băng nhạc mời cháu sang trình diễn, anh có để cháu đi không, và theo anh, cháu có sẵn sàng theo nghiệp bố?
Anh Khoa: Nói thật với anh, nếu được chiếu cố như vậy, hát free cả nhà tôi cũng đi.
Viễn Đông: Anh có muốn nói lời gì với khán giả từng mến mộ anh trước khi từ giã?
Anh Khoa: Tôi xin cám ơn Trung tâm Asia, cám ơn anh chị em nghệ sĩ đồng nghiệp, cám ơn các Trung tâm đã mời tôi cộng tác và nhất là cám ơn quý khán, thính giả khắp nơi đã thương mến và dành cho tôi cảm tình nồng hậu. Tôi mong ước được thường xuyên đến California hay đến Hoa Kỳ nói chung để trình diễn, để gặp lại những khán thính giả yêu mến mình, đồng nghiệp và được ăn những món ăn thuần túy Việtt Nam, mà ở Hungary không bao giờ có.
Nhân cơ hội này, tôi cũng xin chia sẻ một điều, tôi đã cộng tác với các Trung tâm băng nhạc, thấy họ bỏ ra một số tiền rất lớn, có khi từ một trăm ngàn đến một triệu để thực hiện một chương trình, nhưng sau đó không lâu đã có những băng in lậu bán ra thị trường chỉ với vài ba đồng. Thật tội nghiệp cho họ, và nếu không chận đứng được, e rằng các Trung tâm cũng không còn đủ vốn để tiếp tục đem món ăn tinh thần cho mọi người, nên xin quý báo kêu gọi đồng hương ủng hộ các Trung tâm băng nhạc bằng cách mua băng chính gốc,để chúng ta còn có cơ hội thưởng thức và duy trì nền âm nhạc Việt Nam tại hải ngoại.
Xin cám ơn nhật báo Viễn Đông.
Viễn Đông: Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được những điều anh đang mong ước.
Thanh Phong

Duy Quang

 Nhạc phẫm "Thà Như Giọt Mưa" của Phạm Duy (phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên) đưa tên tuổi Duy Quang vào khối đông quần chúng lẫn vào giới sành điệu chọn lọc.
Nhưng bản ấy cũng nhờ Duy Quang mà được quản bá nhanh chóng.
Ở bước đầu vào làng băng nhạc, Duy Quang làm cho những ca khúc của Phạm Duy nổi bật như: "Bình Ca", "Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ", "Em Hiền Như Ma Soeur".
Ngoài ra, anh hát bài "Còn Chút Gì Để Nhớ" (phổ thơ của Vũ Hữu Định) thì chắc chẳng ai có thể qua mặt anh.
Giọng hát của Duy Quang là giọng hát đẹp, chứ không phải là giọng hát điêu luyện. Những bài hát mà ông bố Phạm Duy soạn cho anh hát đều là những bài sang trọng nhưng dễ hát, rất vừa với âm vực của giọng hát anh.
Về sau, khi ra hải ngoại, Duy Quang hát nhiều bài tạp nhạp không có chút giá trị nghệ thuật nào.
Dù gì là dù, giọng hát Duy Quang lọt ra khỏi quỷ đạo của những giọng đi sâu vào đám đông chuyên hát những bản bolero ca tụng lính tráng.
Đó là giọng một hoàng tử đa tình hát gửi cho một mỹ nữ, một giai nhân thuộc dòng quý tộc lâu đời ở chốn gác tía lầu son. Một giọng hát buồn man mác như trời đất vào tiết sơ thu bên phương trời Âu.
Lúc đó ngọn kim phong từ phương Tây thổi tới để làm rụng vài ba lá ngô đồng, để làm vàng vọt ngọn cỏ bồ và nhánh lệ liễu. Tiết sơ thu chỉ lành lạnh vào buổi chiều, cái lạnh cũng chỉ gây gây da thịt mà thôi.
Nhưng cái buồn vào thu tuy man mác mà vô cùng thấm thía đối với những kẻ xa quê hương, nhớ giấc mộng ngày xanh còn thấp thoáng trên từng trang hồi ký hay trên từng trang nhật ký.
Ngọn kim phong se lạnh reo lao xao trong vòm lá ngô đồng mờ tối, trên ngọn bạch dương cắt nép cổ tháp trên nền trời mờ ảo ánh trăng.
Chính lúc đó, bạn mở máy cho chạy có thâu tiếng hát Duy Quang. Bạn sẽ thấy giọng anh buồn nhè nhẹ, buồn êm ái như một câu ru nào đó trong đáy thẳm của thời gian.
Bạn sẽ thấy tiếng hát ấy làm sống lại lời âu yếm của người đẹp năm xưa đã từng thỏ thẻ bên gối bạn, lời âu yếm ấy sao mà buồn dịu dàng và bát ngát như một mối cảm hoài về bóng hạnh phúc đã mất.

Khánh Ly Tiếng Hát Đẹp Man Rợ



Thú thật ở chương 15 của quyển " Chân Dung Những Tiếng Hát " này , tôi muốn dành chung cho Lệ Thu và Khánh Ly. Nhưng nghĩ lại , tôi thấy không ổn.

Dù nhờ cả hai mà các nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn nổi tiếng , Nhưng giọng hát của mỗi người có một bản sắc riêng , cương vị của mỗi người trong ca trường nhạc giới co' một chỗ lộng lẫy huy hoàng riêng. Cho nên tôi phải viết về mỗi người một chương riêng để khỏi bị bà nầy phàn nàn và bị bà kia nhăn nhó.

Tiếng hát Khánh Ly là một giọng hiếm quý. Dù chưa đạt được kỹ thuật thâm hậu , nhưng đây là một giọng cao sang thanh thoát , không đục ngầu những cặn bã , những cái huê dạng kỳ quái và bịnh hoạn.

Tôi không hiểu vì sao nó hợp với các ca khúc của Trịnh Công Sơn một cách kỳ diệu , như trăng phải có nước để lồng bóng , như tuyết phải có mai để đọ màu. Bài hát " Diễm xưa " trước đó đã có Thái Thanh thâu vào dĩa mà chẳng ai buồn chú ý đến. Phải đợi đến Khánh Ly diển tả thì bài hát mới khởi sắc bừng hượng Hình như đa số ca khúc họ Trịnh đều được Khánh Ly hát đạt tình đạt ý , trừ ra bài " Xin Mặt Trời Ngủ Yên " và bài " Hãy Khóc Đi Em ".

Ở bài đầu Khánh Ly làm sao gào xé ruột bằng Lệ Thu vì giọng Lệ Thu cao hơn và chắc nịch hơn giọng cô. Ở bài sau cô cũng không thể gào và chuyền hơi bẵng Carol Kim. Cả hai Lệ Thu và Carol Kim không ngân nga vững và đẹp như Khánh Ly , nhưng về phần diển tả và phần cao độ của giọng hát , họ trội hơn Khánh Ly, đạt tình đạt ý trong hai nhạc phẩm đó hơn cô.

Tiếng hát của Khánh Ly khàn khàn như phảng phất khói thuốc lá , như vương vấn sa mù trộn bóng tối. Tuy nhiên ở chót đuôi nó loé ra âm vang dòn sang sảng cực kỳ gợi cảm.

Cô ngân nga thoải mái dù chuỗi ngân không được dài lắm. Cô xuống trầm cũng dể dàng , nhưng ở những chổ trầm , tiếng cô không căng phồng không dầy cộm , không rền vang như tiếng Thanh Thúy.

Tóm lại về kỹ thuật , Khánh Ly hát khá trội, không có lỗi lầm tỳ vết , nhưng không có cái chân truyền thâm hậu. Nhung về tình ý , dù không điệu đà , Khánh Ly hát vẫn đẹp gợi cảm. Đó là thứ đẹp gợi cảm từ bản chất , không cần nắn nót chạm trổ gì cả.

Ngoài ra 12 ca khúc của Lê Uyên Phương mà cô hát trong băng nhạc với chủ đề " Vũng Lầy Của Chúng Ta " trong đó có những bài tiêu biểu như " Hãy Ngồi Xuống Đây " , " Vũng Lầy Của Chúng Ta ", " Tình Khúc Cho Em " , " Uống Nước Bên Bờ Suối " đều rất truyền cảm , có thể tahy thế nữ ca sĩ Lê Uyên đã từng hát trước đây , khi chưa ra hải ngoại.

Nhạc đã đẹp trong tình ý nóng bỏng nhục cảm , lời hát đã đẹp hoang dã, cả hai rất hợp với giọng hát rất đẹp man dại của Khánh Ly. Thật ra , tiếng hát của Khánh Ly và tiếng hát của Lê Uyên giống nhau một mười một tám. Băng nhạc này do Khánh Ly tặng cho tôi vào năm 1991 , và tôi trân quý như một siêu phẩm của chàng nhạc sĩ Lê Uyên Phương và cũng như một kiệt phẩm của Khánh Ly.

Tiếng hát Khánh Ly đưa chúng ta đến những cảnh thiên nhiên man rợ , nơi đó có những dãy rừng trinh bạch mà chân các nhà thám hiểm chưa hề đặt chân tới. Nơi đó có những di tích của những kỳ quan nguy nga tráng lệ từ hằng nghìn năm xưa bị chôn vùi , có những bóng ma nghìn năm chưa siêu sinh và còn lảng vảng trong đêm tà mờ sương.

Tiếng hát đó cũng đua ta về thuở hồng hoang thái cổ , về thòi khuyết sử để chúng ta cảm nhận được cái đẹp man rợ của khắp cõi địa cầu với những thứ cây trổ kỳ hoa dị quả , với những quái cầm dị điểu không còn sống trên cõi đời nầy nữa sau khi trái đất trải qua những kỷ nguyên thay đổi từng chặng không ngừng. Tiếng hát đó gợi nên cái đẹp phá thể , cái đẹp hoang vu , cái đẹp thoát ra khuôn vàng thước ngọc của trường phái cổ điển.

Ra hải ngoại , Khánh Ly đi lưu diễn cùng khắp Âu, Mỹ, Úc. Cô vô băng nhạc xối xả, sau đó là a nhạc và băng hình. Cô có lập hãng băng nhạc dành ưu tiên cho giọng hát cô (hãng băng nhạc Khánh Ly ). Có lần tôi được xem cô hát trong băng hình Asia video 10 với chủ đề " Gởi Người Một Miềm Vui ".

Cô hát bài " Biển Nhớ " của Trịnh Công Sơn. Cô mặc chiếc dài màu chàm đậm tức là màu xanh mà Phạm Duy viết lời ca cho bản " Le Beau Danube Bleu ": "Ôi mắt em xanh như đêm dài ". Trên nền xanh phía trước có in hình hoa lan trắng to hơn miệng bát , cổ và cánh tay mặt cùng lưng áo phía sau cũng bằng thứ lụa nền xanh ,, nhưng nổi những chấm confettis trắng.

Chiếc áo chỉ có màu tối in hoa và chấm trắng nhưng lại nổi bật lên sự kết hợp tươi sáng và xôn xao. Cô giồi phấn hồng đào , tô son màu hạt lựu khá thắm rỡ. tóc cô bỏ xõa , không có dáng rũ rượi như là tóc mềm chải khéo, đóng khung cho khuôn mặt làm ra vẻ thiểu não rất cần thiết khi cô hát bản nhạc buồn.

Giọng hát cô vẫn trơn như loại hương du ( dầu dừa , dầu mù u ) rót từ chai vào thếp đèn , vẫn ngọt ngào say sưa như mật ong. Chuỗi ngân cô rất dài và rất lưu loát.
Tiếng hát cô không cần chăm sóc . Cô hút thuốc liên miên , cô ăn đủ loại mắm thả cửa , vậy mà nó vẫn chưa hư hao mòn khuyết , vẫn nguyên vẹn như vần tố nguyệt đêm rằm . Xin mừng cho cô .









NHẬT TRƯỜNG : Tiếng Hát Đẹp Nét Điêu Khắc Trên Mặt Gỗ Quỳ.

Các bạn yêu ca nhạc đã từng gặp Nhật Trường trên màn ảnh TV CD ,DVD , trong tiết mục đơn ca, trong ban tứ ca Nhật Trường, trong nhạc cảnh với nữ ca sĩ Thanh Lan, cũng đã thấy nhân diện và vóc dáng ông ra sao rồi. Trên khung màn ảnh nhỏ, nhờ đèn rọi công phu nên mặt ông lồ lộ vẻ sáng mát.
Ông bảnh trai chớ chưa tới mức đẹp trai. Ở ngoài đời, vóc vạc ông liền lạc và cân đối, da mặt hồng hào, môi và nướu răng hồng tươi.
Nhưng mặt ông hơi thỏn, hàm răng trên hơi vẩu, miệng ông khi ngậm không tươi, nhưng khi ông cười thì nụ cười ý nhị.
Ông không có vẻ cởi mở, cái nhìn hơi lơ đãng và đăm chiêu. Khi lên màn ảnh truyền hình, ông chải tóc bóng loáng, ăn mặc bảnh bao, mày râu nhẵn nhụi nên nhan sắc ông vượt trên mức trung bình được vài phân.

Ban tứ ca Nhật Trường lúc đầu gồm có Nhật Trường và ba nữ ca sĩ Diễm Chi, Như Thủy (em gái của NT) và Vân Quỳnh (con gái của Dương Thiệu Tước và Minh Trang).
Sau đó Vân Quỳnh ly khai khỏi ban này thì ông thay thế bằng nữ ca sĩ Hồng Tước (em gái của Kim Tước). Trong ban tứ ca, ông hát giọng chính, còn ba cô kia hát giọng phụ.
Trong các màn nhạc cảnh với Thanh Lan, Nhật Trường mặc quân phục làm lính, Thanh Lan đóng vai em gái hậu phương. Cả hai dùng câu ca tiếng hát trước hết để nịnh nọt lính và o bế giấc mơ yêu lính của các cô thiếu nữ ngây thơ, sau đó để ve vãn nhau, mùi ơi là mùi.
Song song với ca hát, Nhật Trường sáng tác nhạc, lấy tên cúng cơm của mình làm nghệ danh. Đa số nhạc phẫm của ông hợp với cảm quan quần chúng; phần nhiều âm hưởng cổ nhạc cải lương Nam Kỳ lại nghèo nàn giai điệu. Tuy nhiên ông có những bài hay, đạt được tiêu chuẩn nghệ thuật như: "Trên Đỉnh Mùa Đông", "Khi Người Yêu Tôi Khóc", "Chiều Trên Phá Tam Giang" (phổ thơ Tô Thùy Yên).
Nhưng biết sao hơn! Chính những bản âm hưởng cổ nhạc cải lương Nam Kỳ mới nuôi sống ông một cách phủ phê, lại còn giúp ông nổi tiếng như cồn vì chúng bán chạy như tôm tươi, đi sâu vào khối đông quần chúng. Lính tráng hát những nhạc phẫm đó ra rã cả ngày.
Các cô thiếu nữ trong xóm lao động vừa nấu cơm kho cá vừa véo von chót chét những bài "Hoa Trinh Nữ", "Rừng Lá Thấp" v.vv... Biết bao thư thính giả bốn phương bay tới tấp như đàn én, đàn bướm về đài Quân Đội để yêu cầu các ca sĩ đương thời hát những nhạc phẫm ăn khách của Nhật Trường trên làn sóng điện.
Thật tình mà nói, Nhật Trường có tài ở hai phương diện ca hát và sáng tác nhạc. Ông thừa sức sáng tác những nhạc phẫm có giá trị và thừa sức đặt những lời hát đẹp như gấm, sáng như trăng. Giọng ông dù hát những nhạc phẫm hợp với quần chúng, nhưng xa khách sành điệu, tuy nhiên chẳng những là một giọng ca đẹp mà còn là một giọng ca điêu luyện nữa là khác.
Tiếng hát Nhật Trường thật gợi cảm, thật phong phú, chuỗi ngân thật đều và đẹp. Giọng hát ông đã đẹp, nhưng ông lại ưa nắn nót trong cách phát âm, cho nên tiếng hát trở nên điệu đà.
Đó có khác nào tấm gấm hồng đào đã dệt bông kim tuyến, vậy mà ông còn thêu thêm chỉ ngũ sắc nên màu sắc đã chói trở nên rườm rà.
Khán thính giả sành điệu có cảm tưởng giọng hát ông có một chút gì nịnh nọt phụ nữ thái quá. Nó như ve vãn phụ nữ không bằng cái nam tính của bậc trượng phu hảo hán, mà bằng màu mè phù phiếm, bằng cái ỏn thót quá ngọt, quá lộ liễu. Cho nên phần đông khán thính giả nghĩ rằng ông hát bằng trái tim hơi ít mà bằng cái mặt huê dạng của tình cảm hơi nhiều.
Nhật Trường xuất hiện sau Duy Khánh, nhưng nổi tiếng không kém Duy Khánh vào lúc Duy Khánh như vầng thái dương trên vòm trời ca nhạc.
Vào thuở cộng tác với chương trình "Nhạc Chủ Đề Mộc Lan" trên đài truyền hình, Nhật Trường có hát bài "Bướm Hoa" của Nguyễn Văn Thương rất tuyệt.
Khi lên cao, dù tiếng ông không vang lộng, nhưng không mỏng, không gắt. Làn hơi ông lại vừa phong phú vừa mượt mà. Chuỗi ngân của ông đều đặn làm người nghe có cảm tưởng như từng hột ngọc thạch, hột san hồ tròn xinh kết thành một xâu chuỗi dài.
Và đâu đó, Nhật Trường hát bài "Serenade" của Schubert cũng rất đạt.
Khi hát bản đó, ông bỏ bớt lớp phấn bướm diêm dúa của giọng hát để cho giọng hát cao sang thanh thóat, để cách diễn tả thật Tây Phương và cũng thật chân phương, để cho cái đẹp tự nhiên của giọng hát ông được bộc lộ trọn vẹn.













Danh ca Lệ Thu | Hải Ngoại Thương Ca (Nguyễn Văn Đông) | PBN 77

 Còn đây giây phút này Còn nghe tiếng hát, nụ cười xinh tươi Còn trong ánh mắt, còn cầm tay nhau Ngày mai xa cách nhau Một người gối ch...